Tổng quát quá trình phát triển quan hệ Việt-Nhật, có một điều nhận thấy rằng không phải lúc nào mối quan hệ này cũng “xuôi chèo mát mái”. Đây cũng là điều bình thường trong qui luật phát triển.

Thời kỳ trầm lắng

Sau phong trào Đông Du, quan hệ Việt-Nhật bước vào giai đoạn trầm lắng. Hoạt động giao lưu giữa hai nước không còn sôi nổi như những giai đoạn trước.

Tuy nhiên, vào những năm 1930-1940, Việt Nam thu hút sự quan tâm của giới tri thức.Giai đoạn này có nhiều tác giả như Matsumoto Nobuhiro, Yamamoto Tatsuro, Sugimoto Naojiro… thực hiện công việc nghiên cứu Việt Nam. Điều này thể hiện quan hệ hai nước dần đi vào chiều sâu.

phan_boi_chau_vvxu.jpg
Yokohama, nơi Phan Bội Châu đặt chân đầu tiên khi tới Nhật Bản. Ảnh: Tuổi trẻ

Tác phẩm “An Nam thông sứ” của học giả Iwamura Shigemitsu, là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu “văn hiến Hán Nôm” liên quan đến lịch sử Việt Nam được học giả hai nước chú ý. Thông qua cuốn sách, tác giả đồng tình với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.

Ở thời kỳ này, đáng chú ý nhất là việc quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương. Lúc này có tới 9 vạn quân Nhật đóng ở đây (bao gồm Việt Nam). Theo thoả thuận của các nước Đồng minh, binh sĩ Nhật được tập trung ở một số địa điểm dưới sự quản thúc của quân Tưởng (phía bắc vĩ tuyến 16) hoặc của quân Anh (phía nam vĩ tuyến 16), rồi tháng 4/1946 rời Việt Nam về nước qua cảng Hải Phòng và Vũng Tàu. Cũng trong giai đoạn này có một số binh sĩ Nhật đào ngũ.

Sau này, theo ông Oka Kazuaki cựu Chủ tịch Hội hữu nghị Nhật-Việt, đã có gần 800 binh sĩ lưu lại tại thời kỳ này và sống tại Việt Nam. Rõ ràng ở thế kỷ 17 (như đã nói ở trên), đã có nhiều người Nhật sinh sống và lập gia đình với phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, họ lưu lại Việt Nam phần nhiều do lý do Việt Nam đã có độc lập. Và như thế, trong thời kỳ này đã sinh ra một lớp người có hai dòng máu Việt - Nhật.

Hiện tại đã có thế hệ thứ 3, thứ 4 đang sống ở Việt Nam cũng như ở Nhật Bản. Thế hệ người này được các nhà sử học Nhật Bản gọi là người Việt Nam mới. Vấn đề này xét ở góc độ nhân chủng học có những yếu tố tích cực góp phần vào kết nối người Việt Nam và Nhật Bản.

Theo nguyên Chủ tịch Hội hữu nghị Nhật Bản-Việt Nam Moto Furuta (Nay là Hiệu trưởng trường Đại học Việt-Nhật) đến giai đoạn trước1955, có khoảng 600 binh sĩ Nhật lưu lại Việt Nam và “tham gia vào kháng chiến chống Pháp”. Nhưng điều này cần xác minh lại. Nhưng có thể khẳng định rằng, thời kỳ này, quan hệ Việt - Nhật không "xuôi chèo mát mái” do những yếu tố lịch sử khi đó tạo nên.

Và cũng có một thời kỳ nữa là sau năm 1975, do tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển khiến quan hệ hai nước bị ngừng trệ. Một trong những nguyên nhân đó là do sự hiểu lầm đáng tiếc về việc Việt Nam giúp đỡ Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng pôn-pốt. Do vậy phong trào ủng hộ Việt Nam tại Nhật Bản so với thời kháng chiến chống Mỹ giảm. Nhưng sau này hiểu lầm được hóa giải, mối quan hệ hai nước trở lại bình thường, tốt đẹp.

Tuy nhiên, hoạt động giao lưu văn hóa, giáo dục thời kỳ này vẫn được duy trì.Vào thập kỷ 60 của thế kỷ trước, dưới sự chỉ đạo của giáo sư Yamoto Tatsuro, một khóa huấn luyện tiếng Việt cho những người nghiên cứu Việt Nam được tổ chức. Năm 1964, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho thành lập phân khoa tiếng Việt tại trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, và 10 năm sau tại Đại học Ngoại ngữ Osaka. Từ năm 1964 - 1975 có 360 quyển sách xuất bản tại Nhật viết về Việt Nam. Thời kỳ này chủ yếu phát triển ở nghiên cứu học thuật. Qua đó, phần nào mối liên hệ trong quan hệ hai nước vẫn được duy trì.

Đóng góp tích cực của Hội hữu nghị Nhật-Việt

Ngày 19/3/1955, tại Tokyo, Hội Hữu nghị Nhật Bản - Việt Nam chính thức ra đời, thông qua qui ước của Hội là: “Tăng cường hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Nhật Bản, tăng cường giao lưu kinh tế, văn hoá, đóng góp vào hoà bình, phồn vinh của khu vực Châu Á và thế giới”.

Cụ thể hơn, có hai mục đích chính liên quan tới việc thành lập: 1. Với tư cách là phong trào hòa bình dân chủ hòa bình muốn thiết lập quan hệ với các nước lân cận trong khu vực Châu á và Phong trào Hòa bình dân chủ thế giới. 2. Nghiên cứu, tìm hiểu về binh lính Nhật Bản còn lưu lại ở Việt Nam sau năm 1945 và 1955. Những binh lính này gọi là “Người Việt Nam mới” lấy vợ người Việt Nam, sinh ra thế hệ thứ 2,3… có nửa dòng máu Việt, nửa dòng máu Nhật. (như trên đã đề cập)

Tháng 8/1955 Hội thương mại Nhật Bản-Việt Nam cũng được thành lập, cùng với Hội hữu nghị Nhật-Việt là hai tổ chức có quan hệ chặt chẽ góp phần thúc đẩy quan hệ giao lưu với Việt Nam.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam: Tổ chức phong trào chi viện, ủng hộ nhân dân Việt Nam: Cụ thể là quyên góp tiền ủng hộ, phái người điều tra tội phạm chiến tranh của Mỹ, tổ chức Triển lãm tranh, chiếu phim, công diễn nghệ thuật Nhật Bản tại Việt Nam.

Qua đó đã mua được nhiều thuốc men, máy móc y tế, máy phát điện loại nhỏ, dụng cụ học tập… gửi tàu mang đến cho nhân dân Việt Nam. Tính đến năm 1975, khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Hội đã quyên góp được hơn 50 tỷ yên từ hơn 10 triệu lượt người Nhật Bản, tổ chức vân chuyển 11 tàu hàng hóa từ Nhật Bản trao tặng Việt Nam.

Sau năm 1975, có giai đoạn quan hệ hai nước trầm lắng. Sau năm 1995, hoạt động hai bên bình thường trở lại khiến hoạt động của Hội trở nên sôi nổi như trước. Hội cùng với Hội hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản đã đóng góp vào các hoạt động giao lưu nhân dân nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và nhân dân hai nước.

Hội cũng đã tích cực vận động ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, phát động phong trào bảo tồn phố cổ Hội An, góp phần để Hội An được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới.

Hiện nay Hội hữu nghị Nhật-Việt đã có các chi hội ở nhiều tỉnh, thành phố lớn của Nhật Bản và đang tiếp tục hoạt động tích cực để góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước.

Quan hệ Việt-Nhật ấm dần, phát triển thực chất

Ngày 21/9/1973 Việt Nam - Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sau sự kiện này, quan hệ hai nước có những bước phát triển nhất định. Từ năm 1973 – 1978, đây là giai đoạn phát triển chậm chạp, nhưng Nhật Bản đã bắt đầu viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam.

Lễ đón chính thức Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 9/2015 được tổ chức trọng thể tại Nhà khách quốc gia Nhật Bản với những nghi thức cao nhất.

Từ năm 1979 - 1991 là thời kỳ quan hệ hai nước gặp nhiều khó khăn. Nhật ngừng viện trợ cho Việt Nam, nhưng vẫn giữ quan hệ ở mức cầm chừng. Sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Nhật Bản  nối lại viện trợ cho Việt Nam với qui mô nhỏ tập trung vào văn hoá, giáo dục, y tế. Hai nước bắt đầu thực hiện chuyến thăm cao cấp.

Sau đó, nhất là khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới và công cuộc đổi mới đạt được những thành công ban đầu, lần lượt các nguyên thủ của hai nước thường xuyên thăm viếng lẫn nhau, tạo điều kiện cho sự hợp tác của hai nước phát triển trên tất cả các lĩnh vực.

Đến nay, hai nước đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược. Nhật Bản cũng là nước đầu tiên ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam. Năm 2008 hai nước ký Hiệp định đối tác kinh tế Việt-Nhật (VJEPA). Trong chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 4/2009, hai bên đã ra Tuyên bố chung và khẳng định xây dựng “Quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á”.

Các nhà lãnh đạo của Việt Nam như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (thăm Nhật  năm 2013), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (đến Nhật dự Hội nghị Nhật Bản-Mekong tháng 7/2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ( thăm Nhật tháng 9/2015), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (đến Nhật dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng tháng 5/2016 tại Ise-Shima)… đã thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước thực chất hơn bao giờ hết.

Từ đó đến nay, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Nhật Bản cũng là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm ngôi chùa mang dấu ấn quan hệ Việt-Nhật.

Không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, quan hệ hợp tác ở lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế… cũng phát triển tốt đẹp. Đặc biệt, văn hóa ẩm thực, phong cách tiêu dùng Nhật Bản đã ảnh hưởng tích cực tới nền văn hóa Việt Nam, phù hợp với mục đích hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Theo con số thống kê của Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, đến tháng 11/2016 số người Việt Nam ở Nhật Bản khoảng 185.000 người, trong đó lưu học sinh khoảng 55.000 người, lao động, thực tập sinh ở mức hơn 80.000 người.

Dự kiến đến 2017, lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản sẽ vượt Trung Quốc, trở thành nước có du học sinh lớn nhất tại Nhật Bản. 3 năm trở lại đây có thể nói là thời kỳ quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp nhất, thực chất nhất và là mối quan hệ tin tưởng, bạn bè thân thiết.

Hàng năm tại Tokyo, (đến nay đã mở rộng ra Yokohama, tương lai là một số địa phương khác của Nhật Bản), Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản được tiến hành, trở thành sự kiện văn hóa không thể thiếu, đáng nhớ trong lòng người dân Nhật Bản và Việt Kiều. Nó có sức mạnh gắn kết từ “trái tim tới trái tim”, tạo sự tin tưởng lẫn nhau, góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước thực chất và sâu rộng.

Từ những tư liệu trên, có thể nói rằng, mối quan hệ giữa Việt Nam - Nhật Bản qua mỗi thời kỳ đều để lại nhiều dấu ấn lịch sử. Hai nước lại cùng nằm chung trong vùng văn hóa Châu Á, có nhiều nét tương đồng về văn hóa, dễ gần, dễ thông cảm và dễ thân nhau. Do vậy, mối quan hệ này là mối quan hệ qua lại phục vụ lợi ích chung cho hai dân tộc./.

Đón đọc bài 4: Giao lưu văn hóa: Trụ cột phát triển quan hệ Việt Nam-Nhật Bản