<< Bác Hồ và quá trình thành lập Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam; chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Tháng Mười Nga năm 1917.

Ngay từ khi mới ra đời với khẩu hiệu chiến lược “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”, Đảng đã lãnh đạo nông dân và công nhân trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Ở những nơi đó, quần chúng cách mạng đã thực hiện quyền làm chủ, đứng ra tự quản lí đời sống của mình, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở nông thôn. Lần đầu tiên, nhân dân ta thật sự nắm chính quyền ở địa phương.

 

dANG-1.jpg
Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 (Ảnh TL)

Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kì 1936-1939, Đảng đã giáo dục và xây dựng được một đội quân chính trị to lớn ở nông thôn và thành thị; đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Qua cao trào này, trình độ và khả năng công tác của cán bộ và đảng viên được nâng cao, đội ngũ cán bộ cách mạng dày dạn kinh nghiệm ngày càng đông đảo. Đây là một bước chuẩn bị của nhân dân ta cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát-xít Nhật kéo vào Đông Dương (1940). Nhân dân ta chịu cảnh “một cổ hai tròng” vô cùng cực khổ. Ngày 9/3/1945, Nhật hất cẳng Pháp. Đảng đã nhanh chóng chuyển hướng chiến lược, đề ra chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, đẩy tới cao trào kháng Nhật, cứu nước. Ngày 12/3/1945, Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng đã phát động tổng khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị để giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của Pháp - Nhật và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta ngót chục thế kỉ, mở đầu cho kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc - kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của dân tộc. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ảnh TL)

Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước công nông đầu tiên ở Châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi. Người nhấn mạnh: Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc và chống phong kiến không ngừng được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.

Thực tiễn qua 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh TL

Những năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn 1 năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ khi chưa có sự giúp đỡ trực tiếp từ bên ngoài.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, mốc vàng trong lịch sử dân tộc, mang tầm vóc thời đại to lớn- Ảnh TL

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chi Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu ngày 7/5/1954.

Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước./.