Cứ như “Lời giới thiệu” rất trang trọng và hoành tráng do Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Huế tự viết, thay mặt cho nhóm Biên soạn, thì “Công trình Từ điển type truyện dân gian Việt Nam được thực hiện dưới sự chủ trì của PGS. TS Nguyễn Thị Huế và các cán bộ nghiên cứu Phòng Văn học dân gian – Viện Văn học, một cuốn sách dạng từ điển chuyên ngành, giới thiệu toàn cảnh và diện mạo kho tàng truyện dân gian Việt Nam, với một khối lượng các type truyện thuộc các thể loại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện trạng, truyện cười, giai thoại…
Công trình vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính thực hành, ứng dụng cao, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của ngành folklore Việt Nam hiện nay. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu của công trình là truyện kể dân gian thuộc toàn bộ thể loại tự sự trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc Việt Nam…”.
Một ý tưởng đúng đắn và thật đáng trân trọng. Nhưng vấn đề là ở chỗ: “nói thì vậy còn làm có như vậy không”, để bạn đọc tin được lời tự quảng bá “hoành tráng” như trên là có cơ sở?
"Đi đánh Thần Hạn"- Họa sĩ Trương Qua vẽ năm 1970 |
Một công trình khoa học, một bộ Từ điển, loại sách công cụ nhằm để tra cứu, đòi hỏi phải có tính khoa học, tính chính xác rất cao, như chính các nhà khoa học đã nói thế khi làm tập sách này. Đây cũng là công trình được Chính phủ tài trợ sáng tạo năm 2012, bằng tiền đóng thuế của dân. Nhưng rồi liệu công trình khoa học tiêu tốn rất nhiều tiền bạc của dân ấy có khoa học không? Có chính xác như tác giả PGS. TS Nguyễn Thị Huế tự khen mình không?
Mới “tra” vài chục trang đầu trong cuốn sách dày hơn ngàn trang, tôi đã tá hỏa vì không hiểu sao một tác phẩm của mình, là văn học viết, văn học hiện đại, một sáng tạo hoàn toàn cá nhân, trường ca Đi đánh Thần Hạn lại bị PGS. TS Nguyễn Thị Huế và cộng sự vơ quàng vơ xiên, rồi nhét bừa vào cái bị có cái tên rất khoa học là sáng tác tập thể của dân gian, đã từ lâu lưu truyền ở tỉnh Bạc Liêu, nằm trong kho tàng dân gian riêng của tỉnh Bạc Liêu vô cùng xa xôi mà lúc sáng tác truyện này, năm tôi mới 11 tuổi, tôi chưa từng được nghe, rồi úm ba la thế nào, nó lại được “phổ biến rất nhiều ở các tỉnh phía Nam”, trong khi trường ca này của tôi vừa mới viết xong, còn chưa ráo mực đã được in trọn vẹn trong hai trang trên tuần báo Văn nghệ tháng 9/1970. Sau đó tỉnh Hải dương đã in riêng trường ca này khi tôi còn học lớp 5 và sau này Hà Nội tái bản khoảng hơn 30 lần mà vẫn không được biết tới, nói gì đến “phổ biến rộng rãi”. Thật hài hước!
Xin lỗi các nhà khoa học, tôi phải dùng 3 chữ, “thật hài hước”, bởi không thể thay nó bằng bất cứ chữ nào khác được. Một tác phẩm tôi sáng tác hoàn toàn cách đây 43 năm, bằng sự tưởng tượng của một cậu bé học sinh lớp 5. Tôi chưa từng nghe ai kể, kể cả bà mẹ có rất nhiều chuyện dân gian của tôi, tôi cũng chưa từng thấy có, dù là “Type” ở bất cứ tryện cổ dân gian nào, trong nước hay ngoài nước.
Tôi viết trường ca này, cũng vì lúc ấy, quê tôi đang phải đối mặt với hạn và lụt vô cùng gian nan. Tôi định viết hai phần, lấy tên là Trường ca GIÔNG BÃO, phần đầu là Đánh Thần Hạn, phần sau là Đánh Thần Lụt, và Thần Lụt mới quan trọng, vì quê tôi như hòn đảo, xung quanh là các sông lớn, mùa mưa nước chảy rất dữ, có năm đứng trên đê có thể khỏa chân xuống dòng chảy được. Làng tôi lúc nào cũng âm âm tiếng trống từ trên đê vọng về và cứ đến mùa lũ là mất ăn mất ngủ, bởi nếu vỡ đê là chết hàng vài vạn người, nếu không có biện pháp gì đó rất có hiệu quả, ứng cứu. Những năm trước đó, tôi còn nghe có vụ lụt, chính Bác Hồ đã đi trên máy bay trực thăng xem đê Nam Sách có vững không? Ấy là chưa kể, nếu có bom Mỹ hủy diệt?
Chính vì lẽ đó mà tôi viết. Cuối phần I, tôi đã để cho Thần Lụt lấp ló xuất hiện. Là một chi tiết gài, một cánh cửa, mở ra câu chuyện khác ở phần sau. Thần Hạn và Thần Lụt gặp nhau trong bữa tiệc Nhà Trời. Hai Thần với tính cách khác nhau, nên rất ghét nhau. Vậy mà rồi có lúc, chúng lại cấu kết với nhau, chống phá con người. Sức mạnh của con người là nhờ Đất, mà ở đây tôi chọn biểu tượng là phù sa. Tôi đã sử dụng chi tiết này ở phần I, khi đoàn người cúi xuống gan bàn chân : "Lấy đất phù sa. Đỏ quánh. Xoa lên da. Da lạnh. Xoa lên áo quần. Áo quần lành ngay. Hồng tươi trong sắc lửa" ở phần II, khi đánh nhau với Thần Lụt, phù sa cũng che chở họ, bồi đắp thêm sức mạnh cho họ.
Thần Lụt biết được đặc điểm ấy, nên lão thường xối nước vào gan bàn chân cậu bé, khi mất phù sa, cậu bé ngã lộn từ lưng trời xuống, làm đổ nhào mấy dãy núi. Nhưng khi chạm vào đất, bàn chân dính phù sa, cậu lại bay lên với một sức mạnh phi thường. Cuộc chiến đấu rất cam go và quyết liệt để giành lấy chiến thắng. Tôi cũng đã viết phác xong phần II, chưa kịp chữa. Thế rồi, một vị khách qua nhà, mẹ tôi cho mượn đọc, rồi thất lạc và mất hẳn bản thảo, nên chỉ còn phần I là Trường ca Đi đánh Thần Hạn. Khi viết trường ca này, tôi có nghĩ đến sức mạnh của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Bởi thế, khi kết thúc phần I của Trường ca, tôi đề ngày hoàn thành 19/8. Đó chính là ngày tôi viết xong phần I, cũng là ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Chữ Đi đánh Thần Hạn đăng trên báo Văn Nghệ là do nhà thơ Phạm Hổ đổi lên cho tôi. Sau này, tôi vẫn giữ cái tên ấy như một kỷ niệm đẹp với nhà thơ Phạm Hổ và báo Văn nghệ. Thoạt đầu, tôi lấy tên: Trường ca Giông bão, Phần một Đánh Thần Hạn. Bây giờ tôi xin nói về cái Trường ca đã bị các nhà “khoa học” hóa phép thành truyện dân gian Bạc Liêu kia.
Câu chuyện bắt đầu từ “Tết mồng Năm, tháng Năm - Ngọc Hoàng có giỗ - Thần Hạn sang – Ăn cỗ - Thần bay trên trăm ngọn đồi – Trên ngàn cánh rừng – Con suối – Trời cao lung linh gió thổi - Thần uống hết rượu hũ bảy hũ ba – Chị Gió khiêng vò – Cô Mây đỡ hũ – Ăn tiệc suốt chín tháng mười ngày – Thần say – Khép vòi vào cánh - Ngủ ba năm - Tỉnh dậy - Cổ bỏng như ngọn lửa nào thiêu cháy - Ngực cồn cào - Cái bụng khát, dài như con sào - Tóc loăn xoăn đỏ - Chân tóc cháy thành tia lửa - Các cô Mây - Chị Gió - Cổ đeo gùi nước về trời - Bụng Thần hoá chiếc thùng không đáy - Thần vơ từng gùi - Sục vòi - Hút chưa hết một hơi - Cạn nước - Cơn khát vẫn chưa đi - Thần bay ngang bay dọc - Cát mù - Bão thốc.” Và thế là cả một vùng tươi xanh trù phú hóa miền đất chết.
Và Thần Hạn càng điên khùng khi nhìn thấy đoàn người “Đi cạnh dòng khô, sông kiệt - Lửa sém thịt da - Nhưng đoàn người không chết”. Trong đoàn người ấy, có một cụ già và một bạn nhỏ. Sông kêu cứu: “Tôi sắp chết rồi - Con quỷ già hung ác - Nó hút hết máu tôi!”. Núi đồi quằn quại: “Đuổi con quỷ dữ đi - Ơi các cô, các bác - Đầu tôi nóng lắm rồi - Lưng tôi đang thành cát... Họ đi - Suốt nơi này, nơi khác - Dòng sông - Đồi núi - Xóm làng - Không còn giọt nước - Làm thế nào bây giờ? - Cụ già quay lại hỏi - Chòm râu bạc phơ - Tóc trắng trên vầng trán hói - Da hồng phù sa - Mắt sáng hơn sao trên dải Ngân Hà - Đoàn người trầm ngâm, suy nghĩ - Lửa vẫn rát trên đầu - Thần Hạn cắm vòi - Xoáy đau lòng đất - Xoáy buốt thịt xương - Những người đã khuất - Nhưng lạ lùng - Tiếng ai to hơn giông bão - Mạnh hơn thác đổ giữa rừng - Phải bẻ gẫy vòi Thần Hạn - Phải chặt đứt cánh nó đi! - Mọi người nhìn nhau bàng hoàng - Không biết ai vừa nói đấy - Hoá ra bạn Nhỏ chăn trâu - Tuổi chừng lên bảy - Đói mẹ, khát cha - Khi chưa biết chạy diều - Chưa biết thả con thuyền giấy - Da bạn sạm đen- Bốn mùa nắng cháy- Áo quần rách bươm - Chiếc liềm trễ bên sườn - Cụ già cười sang sảng - Giọng vang hơn tiếng cồng - Bay qua trăm ngọn núi - Bay qua nghìn con sông: - Đúng rồi, đúng rồi - Ta phải đánh - Góp bàn tay - Sẽ thành sức mạnh”.
Và rồi dưới “ngọn cờ” của cụ già, một lực lượng đông đảo đã được tập hợp: Mía, Dừa, Thông, Viên Sỏi đường làng, Cua… cùng trẻ già, trai gái. Tất cả lên lưng Cua, bay lên trời, chiến đấu với Thần Hạn. Cô Mây lắc đầu: “Nó có cái vòi ác lắm – Không đánh được đâu”. Chị Gió cũng ngần ngại: “Nó vẫy vùng đôi cánh – Không đánh được đâu”. Lúc ấy, tôi nhớ cũng có người nói “Máy bay Mỹ vẫy vùng đôi cánh, Việt Nam không đánh được đâu”.Một cuộc chiến không cân sức. Rất cam go. Nhiều tình tiết bất ngờ, không thể lường trước. Nhưng rồi đã chiến thắng.
Thực tình khi viết tác phẩm này, hồi bấy giờ, tôi rất thích tuyển tập Trường ca Tây Nguyên. Thích cả những câu so sánh, đại loại "Ngôi nhà dài như một tiếng chiêng". Trong “Đi đánh Thần Hạn”, tôi ảnh hưởng không ít lối ví von, so sánh như thế. Cả cái cách gọi: "Ơi dân làng. Dân làng đi đâu đó?" cũng là cách gọi, cách nói của đồng bào Tây Nguyên.
Tôi xin lỗi bạn đọc vì câu chuyện dây cà dây muống, lại trích dẫn lằng nhằng quá dài. Cũng bởi một tác phẩm được viết hoàn toàn bằng sự tưởng tượng của cậu bé học sinh lớp 5, bỗng chốc lại thành truyện sáng tác của dân gian, mà cụ thể hơn là truyện dân gian của tỉnh Bạc Liêu, lại còn “lưu truyền ở các tỉnh phía Nam”. Nếu các nhà khoa học viết rằng, truyện này do tôi bịa ra, viết theo Type dân gian rồi được truyền tụng thành chuyện dân gian, như thơ Nguyễn Bính, Á Nam Trần Tuấn Khải (nếu đúng được như thế) thì tôi xin ghi nhận rất biết ơn sự ưu ái của nhân dân. Nhưng đây lại không phải như vậy.
Tôi viết Trường ca này vào cuối năm 1969, đầu năm 1970, khi đó nước nhà chưa thống nhất, Bạc Liêu là vùng đất xa xôi cách trở ngàn trùng. Tuy thế, những giá trị tinh thần của nhân dân không xa. Nhiều truyện cổ tích Nam Bộ, Truyện cổ Cà Tu, Trường Ca Tây Nguyên, Truyện cổ Khơ me Nam Bộ đều được sưu tầm phổ biến trong các công trình đồ sộ của Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan… Trong các công trình ấy, không có “Đi đánh Thần Hạn”.
Bây giờ lục trong Google, cũng chỉ có duy nhất “Đi đánh Thần Hạn” là tác phẩm của tôi viết. Tác phẩm này đã tái bản rất nhiều lần. Nhà xuất bản Kim Đồng còn tách ra in riêng với số lượng lớn dành cho các em nhỏ ở vùng sâu vùng xa. Nhạc sĩ Nguyễn Thành (tác giả Qua miền Tây Bắc) cũng đã phổ thành kịch hát. Họa sĩ Huy Chương cũng đã vẽ thành truyện tranh. Năm 1970, họa sĩ Trương Qua cũng muốn dựng phim hoạt họa và ông cũng đã vẽ tặng tôi một bức tranh minh họa rất đẹp.
Vậy bằng cớ đâu mà PGS - TS Nguyễn Thị Huế và các nhà khoa học đồng tác giả lại khẳng định trong một công trình khoa học rằng “Đi đánh Thần Hạn” là truyện dân gian Bạc Liêu? Xin bà và các cộng sự hãy đưa ra văn bản mà các vị lấy làm tư liệu nghiên cứu, là văn bản “Đi đánh Thần Hạn” đã được in ở Bạc Liêu trước năm 1970, là năm tôi công bố tác phẩm này?
Trong bếp núc sáng tạo, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thường chỉ ở một vài chi tiết, chứ không thể toàn vẹn nội dung cùng tất cả mọi tình tiết: “Sỏi làm đạn. Cây thông làm mũi tên. Cây dừa làm kiếm. Cây mía làm dao, mác. Cua xin làm ngựa. Đạn sỏi bắn mù mắt thần hạn hán, nước mắt thần chảy thành cơn mưa, máu thần thành bảy sắc cầu vồng”, rồi trùng lặp chính xác đến cả từng con chữ “Mũi khạc thành sấm”.
Nguyên bản của tôi: “Mũi khẹc thành sấm – Chuyển động trời ngoài trời trong”. Mũi “khẹc” chứ sao lại “khạc” được. Chỉ có miệng mới khạc. Thơ Tú Xương: “Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào”. Lá thông làm mũi tên. Lá dừa làm kiếm. Lá mía làm dao, mác. Chất liệu trong tác phẩm của tôi là thế. Chứ “cây” dừa, “cây” mía, “cây” thông làm sao thành kiếm thành tên được. Xem ra câu chữ của các nhà khoa học cũng lởm khởm lắm mà lại chẳng khoa học tí nào.
Thực ra, những chuyện cẩu thả như thế này trong các công trình được gọi là khoa học, cứ dựng lên để vét tiền dân vẫn diễn ra như cơm bữa, chán đến mức chẳng còn muốn nói nữa. Nhưng ở đây nó lại liên quan đến một tác phẩm của tôi, một tác phẩm đã in đi in lại nhiều lần và nhiều người cũng đã biết nên tôi buộc lòng phải lên tiếng, kẻo rồi có bạn đọc lại hiểu lầm, lại tưởng là lão Khoa đã đạo văn, mà đạo văn từ khi mới nứt mắt.
Một công trình khoa học, một cuốn sách công cụ đòi hỏi sự chính xác và tính khoa học rất cao mà ngay từ những trang đầu đã lởm khởm và cẩu thả đến như thế thì liệu công trình ấy có tin cậy được không?/.